Mình sưu tầm được cái này
Xin được giới thiệu quan điểm mỹ thuật trong Suiseki của Ô. Martin Pauli, Ô. Felix G. Rivera, nhà biên soạn sách suiseki nổi tiếng và Ô. Arishige Matsuura, chủ tịch hội Nippom Suiseki. Họ đáng giá một tác phẩm suiseki dựa trên cơ sở nào?
Suiseki là một trong những nghệ thuật đặc biệt nhất của người Nhật, đại diện cho cách nhìn độc đáo về thiên nhiên cũng chính là suiseki.
Nguyên văn: “One of the most exceptional Japanese arts, representing this unique view of nature, is “suiseki”” Martin Pauli.
Suiseki là nghệ thuật diễn tả các hiện tượng thiên nhiên, từ một nơi trong nước cho đến khắp nơi trên trái đất, chỉ cần sử dụng một viên đá từ vài centimet tới vài chục centimet là có thể diễn tả được cảm xúc đậm đà về một khung cảnh thiên nhiên hữu tình, lột tả được nổi niềm trong một nội tâm sâu kín.
Tính nghệ thuật trong thú chơi suiseki bắt đầu với sự thích lũy gởi gấm ý niệm cho đá và tuyệt vời nhất chính là cảm nhận về giao tiếp bằng ngôn ngữ riêng giữa nhà sưu tập đá với đá. Đá được lấy từ thiên nhiên và đặc biệt là không hề bị bất cứ một tác động hoặc biến đổi nào từ con người (đá bị trầy, nứt, vỡ không do chủ ý của con người cũng không thể coi là suiseki).
NĂM NHÂN TỐ MỸ THUẬT ĐÁNH GIÁ SUISEKI
Một suiseki được cho là đẹp khi nó hoàn toàn tự nhiên, được gợi hình bằng chính hình dạng tự nhiên của nó, ví dụ như những viên đá thể hiện phong cảnh thiên nhiên (Sansui), một nhân vật hoặc một vật thể (Sugata), một loài vật (Dobustu). Việc kết hợp này mang đến một trạng thái tinh thần thanh thản trong giới hạn nhất định là rất quan trọng để hiểu được năm yếu tố mỹ thuật của Suiseki. Nói cách khác, giá trị thẩm mỹ của đá được chi phối bởi hình thể, chất lượng màu sắc, kết cấu và sự cổ xưa. Tiêu chuẩn đánh giá cuối cùng của đá là một sự đánh giá toàn diện của những nhân tố khác nhau này., gắn bó và tác động lẫn nhau và với các nhân tố khác.
1. Nhân tố thứ nhất: Hình dáng
Đây là nhân tố quan trọng nhất trong việc đánh giá chất lượng tương đối của một suiseki. Phương pháp thông dụng nhất của việc đáng giá này là ngồi nghía trước viên đá và nhìn tập trung vào nó. Bất kì một viên đá nào mang đến một cảm giác không tự nhiên ngày từ cái nhìn đầu tiên điều được coi như không thích hợp. Chúng ta có thể đề cập đến tiếp sau đây về những phương pháp lý tưởng của việc nhìn ngắm một viên đá (phương pháp “thiền” sẽ là cách thức được ưa chuộng khi chiêm ngưỡng một tác phẩm nghệ thuật suiseki).
- Mười góc nhìn từ một viên đá
Có người nói rằng khi nhìn một viên đá ở một góc nhìn nào đó sẽ xuất hiện một viên đá mới. Điều này cho thấy cũng cùng một viên đá ta có thể sẽ có nhiều hình dáng khác nhau, và nhờ đó ta có điều kiện để phát hiện ra được một hình dáng mà ta tâm đắc nhất
- Phương pháp ba mặt:
Đây được coi là phương pháp cơ bản nhất để đánh giá Suiseki. Ba mặt (sanmen) liên quan đến phía trước-phía sau, bên trái-bên phải, phía dưới của viên đá. Sự cân bằng giữa các mặc khác nhau được coi là cơ sở để chiêm ngưỡng và đánh giá một viên đá.
Khi ngắm nhìn một viên đá từ một điể ưu thế của ba mặt này nên có sự cân bằng giới hạn của khối lượng và hình dáng. Một viên đá nổi bậc cũng phải có sự cân bằng về kích cỡ, độ dày và hình dạng của ba mặt. Ví dụ như: một viên đá hình núi thì sự cân đối thể hiện ở chổ chân núi phải có kích thước lớn hơn nhìu so với đỉnh và phải trải ra các phía, tạo sự vững chắc và tầm nhìn trải rộng. Nếu mặt bên phải nhô ra thì cũng phải có sự mở rộng của một số góc độ bên trái. Phần đáy của viên đá được cho là tốt nhất khi nó “ngồi” vững từ điểm chính giữa đến toàn thể viên đá.
- Cảm giác không tự nhiên:
Nên lưu ý rằng suiseki tiêu biểu cho một bức tranh lý tưởng của thiên nhiên và nền văn hóa của người Nhật. “Sanmen No Ho”, xã hội người Nhật chỉ vận hành với ba mặt nhưng nó phán xét được tất cả ở sáu khía cạnh. Như Matsuura Arishige nói, phía trước của viên đá là mặt quan trọng nhất của nó bởi với cách trưng bày Tokonoma và bạn chỉ có thể ngồi hay đứng phía trước nó để chiêm ngưỡng. Giống như sự sống của con người thường thể hiện ngay chính trên gương mặt, người Nhật hiểu rằng một cáu cây hoặc một viên đá như là một sinh vật hay ”một thực thể sống vô ngôn” nhưng điều thể hiện qua hình dáng, bề mặt của nó.
Trước và sau: nghĩa là cần phải chú ý đến tất cả những vẻ bên ngoài của đá như đường nét hay các đăc điểm chính, độ sâu và nhiều thứ khác nữa. Những đường nhấp nhô trên đỉnh ngọn núi trong vẻ nhẵn mịn và uyển chuyển nhịp nhàng. Những con dốc thấp dần xuống mặt đất một cách mềm mại và chân núi nhô ra về phía người xem. Ở mặt lưng, ngọn núi trông không giống như bị chia cắt, gập ghềnh và bị uốn cong. Chân núi nhô ra nhưng không nhô ra nhiều như mặt trước.
Bên trái và bên phải: cũng giống Trước và Sau, ngọn núi trông hài hòa và phải thật tự nhiên. Phần chân núi sẽ nhô ra ở cả mặt bên trái và mặt bên phải. Liếc nhìn một ngọn núi lý tưởng nhất là nhìn một phần ba từ bên trái hoặc từ bên phải, chủ yếu là thấy được khía cạnh đẹp và quý của nó phù hợp với quy tắc một phần ba nghĩa là đỉnh núi phải nằm cách chân núi bên trái hoặc bên phải một phần ba chiều dài chân núi (còn gọi là tỉ lệ vàng).
Trên và dưới: nhìn từ trên đỉnh, viên đá cong một ít về hướng người xem, giống như boisai. Khu vực ở giữa sẽ sâu hơn phần dưới cùng của nó. Phần đáy của viên đá sẽ có thể nhiều hơn hoặc ít hơn – bằng phẳng, tự nhiên, không bị đứt đoạn.
- Độ dày và Hình dáng:
Độ dày: một viên đá có thể mỏng, nhẹ vè thanh mảnh nhưng phải đứng vững. Khi đặt viên đá vào suiban ta sẽ thấy ngay chổ cần sửa, mặt đáy của viên đá phải chạm kín mặt cát.
Cát có thể lấy ở trong hồ hoặc ở đại dương và có màu vàng ngà là lý tưởng. Khay cát không nhất thiết phải cạn. Cũng có những khay cát sâu dùng cho các viên đá có phần chân không bằng phẳng. Nhưng kích cỡ của khay phải luôn hài hòa cân đối với kích cỡ của đá.
2. Nhân tố thứ hai: Chất (shitsu)
Về chất của đá cũng như suiseki, viên đá phải đủ độ cứng và nặng để không thể biến đổi chất lượng nhanh chóng và không có nguy cơ bị hư hỏng. Rêu rất dễ mọc trên đá mềm để hút nước.
Mặt khác, nếu viên đá quá cứng sẽ thiếu đi yếu tố đặt biệt tạo vẻ đẹp và sức cuốn hút trái tim ta vì khi đá qua cứng sự ăn mòn xâm thực của thiên nhiên sẽ diễn ra quá chậm và chắc chắn sẽ khó tạo những đường nét kiều diễm. nói cách khác, Suiseki nên có độ cứng vừa phải (5 Mohs – là độ cứng tương đối do nhà địa chất người Áo phát minh).
Một viên đá có khả năng hấp thụ nước kém, nó vẫn có thể cải thiện khả năng đó bằng cách “tập luyện” qua thời gian dài. Để chuẩn bị đá, người ta thường đặt chúng kệ bonsai hoặc ở khu vực nhiều nắng của khu vườn và tưới nước lên chúng mõi ngày (ở châu Âu cho nước chảy nhỏ giọt là tốt nhất). Vị trí của viên đá cũng nên thay đổi mõi tháng một lần. Tuy nhiên, khi phơi đá dưới ánh nắng mặt trời chỉ áp dụng giới hạn với một số loại đá mà thôi, điều mà chỉ được dùng đối với suiban. Đá được trưng bày trên bệ daiza, thì phương pháp đặt đá ngoài trời là không thích hợp. Trong trường hợp này, viên đá được giữ trong nhà và được lau với vải bông khô mềm thường xuyên.
3. Nhân tố thứ ba: Sắc (iro)
Điều quan trọng trong trường hợp này là sắc màu của đá sao mà ko được gợi lên cảm giác về sự kì kị hay không tự nhiên. Ngoại trừ trường hợp nó gợi nhớ đến một cảm xúc về phong cảnh thiên nhiên đặc biệt nào đó. Trong thế giới của suiseki , chân giá trị và sự tĩnh lặng của đá là đặt biệt quan trọng. Điều đó nghĩa là suiseki phải rắn, có màu tối, sẫm tối để tạo cảm giác sâu lắng sẽ được đánh giá cao.
Một viên đá màu đen, gây ra một cảm giác tinh tế, vị giác thì mượt mà, tinh thần sâu thẳm được như thế thì coi như là lý tưởng với tinh thần “thiền”. Đá màu đen từ Kamogawa (Kamo_river) được xếp vào loại tốt nhất về mặt này. Tuy nhiên, những người am hiểu đá cũng đánh giá các đá Kurama với màu đen của chúng gần như màu sắt rỉ. Kế đến là những loại đá có màu tối đẹp như xanh đen hay đen xám. Ở nước ta đá có màu đen huyền (Basalt) ở Lâm Đồng, Bình Thuận được xem là lý tưởng.
Màu sắc còn là biểu tượng cho các mùa trong năm. Ví dụ như màu nâu gỉ của Kurama-ishi đại diện cho mùa hè thu. Khi cây thích của Nhật trên đỉnh núi “ra hoa” (sakari), trở thành màu đỏ rực. Có rất nhiều màu sắc đặc trưng khác được thưởng thức bởi những người yêu suiseki: có màu đỏ son (beni) được tìm thấy ở đá từ con sông Kamo (Kamogawa). Chúng được biết đến với cái tên Kamogawa-beni-nagashi-ishi. Người ta cho rằng đây là màu dùng để trang điểm của những quý bà trong cung đình suốt thời kì Heian.
Xin được giới thiệu quan điểm mỹ thuật trong Suiseki của Ô. Martin Pauli, Ô. Felix G. Rivera, nhà biên soạn sách suiseki nổi tiếng và Ô. Arishige Matsuura, chủ tịch hội Nippom Suiseki. Họ đáng giá một tác phẩm suiseki dựa trên cơ sở nào?
Suiseki là một trong những nghệ thuật đặc biệt nhất của người Nhật, đại diện cho cách nhìn độc đáo về thiên nhiên cũng chính là suiseki.
Nguyên văn: “One of the most exceptional Japanese arts, representing this unique view of nature, is “suiseki”” Martin Pauli.
Suiseki là nghệ thuật diễn tả các hiện tượng thiên nhiên, từ một nơi trong nước cho đến khắp nơi trên trái đất, chỉ cần sử dụng một viên đá từ vài centimet tới vài chục centimet là có thể diễn tả được cảm xúc đậm đà về một khung cảnh thiên nhiên hữu tình, lột tả được nổi niềm trong một nội tâm sâu kín.
Tính nghệ thuật trong thú chơi suiseki bắt đầu với sự thích lũy gởi gấm ý niệm cho đá và tuyệt vời nhất chính là cảm nhận về giao tiếp bằng ngôn ngữ riêng giữa nhà sưu tập đá với đá. Đá được lấy từ thiên nhiên và đặc biệt là không hề bị bất cứ một tác động hoặc biến đổi nào từ con người (đá bị trầy, nứt, vỡ không do chủ ý của con người cũng không thể coi là suiseki).
NĂM NHÂN TỐ MỸ THUẬT ĐÁNH GIÁ SUISEKI
Một suiseki được cho là đẹp khi nó hoàn toàn tự nhiên, được gợi hình bằng chính hình dạng tự nhiên của nó, ví dụ như những viên đá thể hiện phong cảnh thiên nhiên (Sansui), một nhân vật hoặc một vật thể (Sugata), một loài vật (Dobustu). Việc kết hợp này mang đến một trạng thái tinh thần thanh thản trong giới hạn nhất định là rất quan trọng để hiểu được năm yếu tố mỹ thuật của Suiseki. Nói cách khác, giá trị thẩm mỹ của đá được chi phối bởi hình thể, chất lượng màu sắc, kết cấu và sự cổ xưa. Tiêu chuẩn đánh giá cuối cùng của đá là một sự đánh giá toàn diện của những nhân tố khác nhau này., gắn bó và tác động lẫn nhau và với các nhân tố khác.
1. Nhân tố thứ nhất: Hình dáng
Đây là nhân tố quan trọng nhất trong việc đánh giá chất lượng tương đối của một suiseki. Phương pháp thông dụng nhất của việc đáng giá này là ngồi nghía trước viên đá và nhìn tập trung vào nó. Bất kì một viên đá nào mang đến một cảm giác không tự nhiên ngày từ cái nhìn đầu tiên điều được coi như không thích hợp. Chúng ta có thể đề cập đến tiếp sau đây về những phương pháp lý tưởng của việc nhìn ngắm một viên đá (phương pháp “thiền” sẽ là cách thức được ưa chuộng khi chiêm ngưỡng một tác phẩm nghệ thuật suiseki).
- Mười góc nhìn từ một viên đá
Có người nói rằng khi nhìn một viên đá ở một góc nhìn nào đó sẽ xuất hiện một viên đá mới. Điều này cho thấy cũng cùng một viên đá ta có thể sẽ có nhiều hình dáng khác nhau, và nhờ đó ta có điều kiện để phát hiện ra được một hình dáng mà ta tâm đắc nhất
- Phương pháp ba mặt:
Đây được coi là phương pháp cơ bản nhất để đánh giá Suiseki. Ba mặt (sanmen) liên quan đến phía trước-phía sau, bên trái-bên phải, phía dưới của viên đá. Sự cân bằng giữa các mặc khác nhau được coi là cơ sở để chiêm ngưỡng và đánh giá một viên đá.
Khi ngắm nhìn một viên đá từ một điể ưu thế của ba mặt này nên có sự cân bằng giới hạn của khối lượng và hình dáng. Một viên đá nổi bậc cũng phải có sự cân bằng về kích cỡ, độ dày và hình dạng của ba mặt. Ví dụ như: một viên đá hình núi thì sự cân đối thể hiện ở chổ chân núi phải có kích thước lớn hơn nhìu so với đỉnh và phải trải ra các phía, tạo sự vững chắc và tầm nhìn trải rộng. Nếu mặt bên phải nhô ra thì cũng phải có sự mở rộng của một số góc độ bên trái. Phần đáy của viên đá được cho là tốt nhất khi nó “ngồi” vững từ điểm chính giữa đến toàn thể viên đá.
- Cảm giác không tự nhiên:
Nên lưu ý rằng suiseki tiêu biểu cho một bức tranh lý tưởng của thiên nhiên và nền văn hóa của người Nhật. “Sanmen No Ho”, xã hội người Nhật chỉ vận hành với ba mặt nhưng nó phán xét được tất cả ở sáu khía cạnh. Như Matsuura Arishige nói, phía trước của viên đá là mặt quan trọng nhất của nó bởi với cách trưng bày Tokonoma và bạn chỉ có thể ngồi hay đứng phía trước nó để chiêm ngưỡng. Giống như sự sống của con người thường thể hiện ngay chính trên gương mặt, người Nhật hiểu rằng một cáu cây hoặc một viên đá như là một sinh vật hay ”một thực thể sống vô ngôn” nhưng điều thể hiện qua hình dáng, bề mặt của nó.
Trước và sau: nghĩa là cần phải chú ý đến tất cả những vẻ bên ngoài của đá như đường nét hay các đăc điểm chính, độ sâu và nhiều thứ khác nữa. Những đường nhấp nhô trên đỉnh ngọn núi trong vẻ nhẵn mịn và uyển chuyển nhịp nhàng. Những con dốc thấp dần xuống mặt đất một cách mềm mại và chân núi nhô ra về phía người xem. Ở mặt lưng, ngọn núi trông không giống như bị chia cắt, gập ghềnh và bị uốn cong. Chân núi nhô ra nhưng không nhô ra nhiều như mặt trước.
Bên trái và bên phải: cũng giống Trước và Sau, ngọn núi trông hài hòa và phải thật tự nhiên. Phần chân núi sẽ nhô ra ở cả mặt bên trái và mặt bên phải. Liếc nhìn một ngọn núi lý tưởng nhất là nhìn một phần ba từ bên trái hoặc từ bên phải, chủ yếu là thấy được khía cạnh đẹp và quý của nó phù hợp với quy tắc một phần ba nghĩa là đỉnh núi phải nằm cách chân núi bên trái hoặc bên phải một phần ba chiều dài chân núi (còn gọi là tỉ lệ vàng).
Trên và dưới: nhìn từ trên đỉnh, viên đá cong một ít về hướng người xem, giống như boisai. Khu vực ở giữa sẽ sâu hơn phần dưới cùng của nó. Phần đáy của viên đá sẽ có thể nhiều hơn hoặc ít hơn – bằng phẳng, tự nhiên, không bị đứt đoạn.
- Độ dày và Hình dáng:
Độ dày: một viên đá có thể mỏng, nhẹ vè thanh mảnh nhưng phải đứng vững. Khi đặt viên đá vào suiban ta sẽ thấy ngay chổ cần sửa, mặt đáy của viên đá phải chạm kín mặt cát.
Cát có thể lấy ở trong hồ hoặc ở đại dương và có màu vàng ngà là lý tưởng. Khay cát không nhất thiết phải cạn. Cũng có những khay cát sâu dùng cho các viên đá có phần chân không bằng phẳng. Nhưng kích cỡ của khay phải luôn hài hòa cân đối với kích cỡ của đá.
2. Nhân tố thứ hai: Chất (shitsu)
Về chất của đá cũng như suiseki, viên đá phải đủ độ cứng và nặng để không thể biến đổi chất lượng nhanh chóng và không có nguy cơ bị hư hỏng. Rêu rất dễ mọc trên đá mềm để hút nước.
Mặt khác, nếu viên đá quá cứng sẽ thiếu đi yếu tố đặt biệt tạo vẻ đẹp và sức cuốn hút trái tim ta vì khi đá qua cứng sự ăn mòn xâm thực của thiên nhiên sẽ diễn ra quá chậm và chắc chắn sẽ khó tạo những đường nét kiều diễm. nói cách khác, Suiseki nên có độ cứng vừa phải (5 Mohs – là độ cứng tương đối do nhà địa chất người Áo phát minh).
Một viên đá có khả năng hấp thụ nước kém, nó vẫn có thể cải thiện khả năng đó bằng cách “tập luyện” qua thời gian dài. Để chuẩn bị đá, người ta thường đặt chúng kệ bonsai hoặc ở khu vực nhiều nắng của khu vườn và tưới nước lên chúng mõi ngày (ở châu Âu cho nước chảy nhỏ giọt là tốt nhất). Vị trí của viên đá cũng nên thay đổi mõi tháng một lần. Tuy nhiên, khi phơi đá dưới ánh nắng mặt trời chỉ áp dụng giới hạn với một số loại đá mà thôi, điều mà chỉ được dùng đối với suiban. Đá được trưng bày trên bệ daiza, thì phương pháp đặt đá ngoài trời là không thích hợp. Trong trường hợp này, viên đá được giữ trong nhà và được lau với vải bông khô mềm thường xuyên.
3. Nhân tố thứ ba: Sắc (iro)
Điều quan trọng trong trường hợp này là sắc màu của đá sao mà ko được gợi lên cảm giác về sự kì kị hay không tự nhiên. Ngoại trừ trường hợp nó gợi nhớ đến một cảm xúc về phong cảnh thiên nhiên đặc biệt nào đó. Trong thế giới của suiseki , chân giá trị và sự tĩnh lặng của đá là đặt biệt quan trọng. Điều đó nghĩa là suiseki phải rắn, có màu tối, sẫm tối để tạo cảm giác sâu lắng sẽ được đánh giá cao.
Một viên đá màu đen, gây ra một cảm giác tinh tế, vị giác thì mượt mà, tinh thần sâu thẳm được như thế thì coi như là lý tưởng với tinh thần “thiền”. Đá màu đen từ Kamogawa (Kamo_river) được xếp vào loại tốt nhất về mặt này. Tuy nhiên, những người am hiểu đá cũng đánh giá các đá Kurama với màu đen của chúng gần như màu sắt rỉ. Kế đến là những loại đá có màu tối đẹp như xanh đen hay đen xám. Ở nước ta đá có màu đen huyền (Basalt) ở Lâm Đồng, Bình Thuận được xem là lý tưởng.
Màu sắc còn là biểu tượng cho các mùa trong năm. Ví dụ như màu nâu gỉ của Kurama-ishi đại diện cho mùa hè thu. Khi cây thích của Nhật trên đỉnh núi “ra hoa” (sakari), trở thành màu đỏ rực. Có rất nhiều màu sắc đặc trưng khác được thưởng thức bởi những người yêu suiseki: có màu đỏ son (beni) được tìm thấy ở đá từ con sông Kamo (Kamogawa). Chúng được biết đến với cái tên Kamogawa-beni-nagashi-ishi. Người ta cho rằng đây là màu dùng để trang điểm của những quý bà trong cung đình suốt thời kì Heian.